Các tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
Vào những năm 1917-1918, số học sinh trung học của tỉnh Quảng Nam ở Huế đã chung nhau thành lập một nhà Hội Quảng Nam ở gần cầu Giả Viên, nhằm tạo một nơi ăn ở và học tập tập thể nhằm đỡ tốn kém. Nhà Hội Quảng Nam cũng là nơi lui tới của nhiều trí thức tiến bộ.

Năm 1927, ở Huế nổ ra một cuộc bãi khóa lớn. Nhà Hội Quảng Nam biến thành trung tâm lãnh đạo cuộc bãi khóa. Mật thám bắt giam hàng loạt học sinh, đóng cửa trường học. Số anh em ở trọ nhà Hội Quảng Nam phải phân tán đi các nơi, một số bỏ về quê tránh khủng bố.

Đỗ Quang, quê ở Quế Sơn, học ở trường Cao đẳng Thú y Hà Nội, được đưa ra ngoài nước dự lớp huấn luyện ở Quảng Châu (Trung Quốc) vừa trở về nước, đã gặp gỡ tuyên truyền một số anh em, lập ra Ban vận động Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Tháng 9-1927, chi hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Đà Nẵng chính thức được thành lập do Đỗ Quang làm Bí thư, gồm có Đỗ Quỳ, Lê Quang Sung, Lê Văn Hiến, Thái Thị Bôi, Phan Long. Ở Đà Nẵng lúc bấy giờ lại có một tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên khác do Nguyễn Tường thành lập, dựa vào số cốt cán của hội Ái hữu lái xe miền Trung. Ở Hội An, một chi hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Phan Thêm (Cao Hồng Lãnh) chịu ảnh hưởng của tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Quảng Trị cũng được thành lập.

Đầu năm 1928, trong một cuộc hội nghị tổ chức gần Giếng Bộng (Đà Nẵng), dưới sự chủ trì của phái viên Tổng bộ là Vương Thúc Oánh, từ ba đầu mối nói trên hợp nhất thành một đơn vị và đã chính thức bầu ra ban chấp hành tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Quảng Nam gồm Đỗ Quang (bí thư), Phan Thêm, Nguyễn Tường, Nguyễn Thái, Phan Long, Thái Thị Bôi, Lê Văn Hiến.
Cuối năm 1928, Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên quyết định chọn Đỗ Quỳ và Phan Thêm đi dự lớp huấn luyện ở Quảng Châu, Lê Quang Sung đi dự lớp huấn luyện khác ở Thái Lan. Đến tháng 5-1929, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Nam và Đà Nẵng có số lượng đến 50 người, và trở thành một tổ chức chính trị có ảnh hưởng nhất định tại địa phương.
* Tổ chức Đảng Tân Việt
Ở Quảng Nam, vào tháng 2-1927, chi hội Tân Việt đầu tiên được thành lập gồm 5 đảng viên do Bùi Châu, nhân viên bưu điện Đà Nẵng làm Bí thư. Mùa hè năm 1928, trong Đại hội Kỳ bộ Tân Việt họp ở Huế, Bùi Châu được cử vào Ban chấp hành Kỳ bộ, số đảng viên Tân Việt lên đến 14 người. Cuối năm này, xuất hiện một số chi bộ cộng sản do phái tả trong đảng Tân Việt tự tổ chức. Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản liên đoàn được thành lập trên cơ sở Tân Việt ở Huế bị vỡ, nhiều người lãnh đạo và đảng viên bị bắt, số còn lại phân tán đi khắp nơi. Ở Quảng Nam, ảnh hưởng của Tân Việt không sâu rộng như Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
* Đảng bộ Cộng sản tỉnh Quảng Nam ra đời
Tháng 3-1929, một chi bộ cộng sản được thành lập ở phố Hàm Long (Hà Nội). Ngày 17-6-1929, những người tiên tiến trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đứng ra thành lập Đông Dương Cộng sản đảng, phát đi Tuyên ngôn và Cương lĩnh của đảng.
Tháng 9-1929, Đảng bộ Cộng sản tỉnh Quảng Nam được thành lập. Tỉnh ủy lâm thời gồm Phan Văn Định (bí thư) Phạm Thâm (phó bí thư), Nguyễn Thái (ủy viên).
Ngày 3-2-1930, tại Cửu Long, gần Hồng Kông, một hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (An Nam Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính cương vắn tắt của đảng Cộng sản nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(1).
Ngày 28-3-1930, Ban Chấp hành lâm thời ra thông cáo về việc thành lập Đảng bộ đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Nam. Tỉnh ủy lâm thời gồm: Phan Văn Định (Bí thư), Phạm Thâm, Nguyễn Thái. Tổng số đảng viên trong tỉnh vào cuối năm 1930 lên đến 80 người.
Đảng bộ tỉnh Quảng Nam ra đời – mốc son sáng ngời trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Quảng Nam
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chỉ gần hai tháng sau, vào ngày 28-3-1930, tại địa điểm Cây Thông Một (nay thuộc KP. Tân Thanh, p.Tân An, tp. Hội An), Đảng bộ Quảng Nam được thành lập. Đây là sự kiện đánh dấu một mốc son sáng ngời trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Quảng Nam, cùng cả nước giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta liên tục nổ ra nhưng đều bị thất bại. Trước tình hình đó, năm 1911 Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Bản luận cương đã giúp Người khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới thoát khỏi ách nô lệ. Từ đó, Người tổ chức một nhóm cách mạng đầu tiên gồm 9 người và kết nạp 5 đảng viên cộng sản dự bị làm đầu mối liên lạc cần thiết để chỉ đạo phong trào trong nước. Tháng 6-1925, Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, mở các lớp huấn luyện, in tác phẩm Đường Kách mệnh để truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước; chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến đến thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam.
Ở Quảng Nam những năm đầu thế kỷ XX, các phong trào Đông Du, Duy Tân diễn ra sôi nổi nhưng đều bị thất bại. Mặc dù vậy, tinh thần đấu tranh, ý chí cách mạng của nhân dân Quảng Nam vẫn không hề giảm sút, chờ có cơ hội là bùng lên mạnh mẽ. Đó là cơ sở để nhân dân Quảng Nam nhanh chóng tiếp thu con đường cứu nước theo ý thức hệ vô sản.
Vào những năm 1925 – 1927, nhiều sách báo tiến bộ được tuyền bá vào Quảng Nam – Đà Nẵng, đặc biệt là tác phẩm Đường Kách mệnh được nhiều thanh niên, học sinh yêu nước đón đọc. Tuổi trẻ Xứ Quảng tìm thấy được một nguồn sức mạnh mới và nhanh chóng đi theo Đường Kách mệnh. Nhiều tổ chức yêu nước ở Quảng Nam – Đà Nẵng ra đời, như Hội trí thức thể thao ở Tam Kỳ (cuối năm 1925), Hội ái hữu lái xe miền trung được thành lập tại Đà Nẵng đầu năm 1926. Tháng 9-1927, chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Đà Nẵng được thành lập do Đỗ Quang làm Bí thư. Cũng thời gian này, ở Đà Nẵng còn có một tổ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do Nguyễn Tường phát triển vào số cốt cán của Hội ái hữu lái xe miền Trung. Tại Hội An, tháng 10-1927, Chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Hội An được thành lập do đồng chí Phan Thêm (Cao Hồng Lãnh) làm Bí thư.
Từ 3 chi bộ trên, đầu năm 1928, một cuộc hội nghị được tổ chức ở gần Giếng Bộng (Đà Nẵng), hội nghị đã chính thức bầu ra Ban chấp hành Tỉnh bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên Quảng Nam gồm có Đỗ Quang, Phan Thêm, Nguyễn Tường, Nguyễn Thái, Phan Long, Thái Thị Bôi, Lê Văn Hiến do Đỗ Quang làm Bí thư. Đến tháng 3-1929, Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương tách chi bộ Đà Nẵng ra khỏi Tỉnh bộ Quảng Nam.
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên nhanh chóng trở thành một tổ chức chính trị có ảnh hưởng lớn trong tỉnh. Tôn chỉ của Hội: “Trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới” được giải thích rõ mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng trong và ngoài nước. Hội ra sức phát triển các tổ chức quần chúng như hội ái hữu, hội nữ công, tổ chức dạy nghề. Hội đã vận động một số cuộc đấu tranh chính trị.
Trong lúc hoạt động có chiều hướng phát triển thì đầu tháng 6-1929, Tỉnh bộ nhận được tin có sự phân liệt ở Đại hội Tổng bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Sau đó, lần lượt của 3 tổ chức Cộng sản ở Việt Nam, đó là Đông Dương Cộng sản đảng (6-1929), An Nam Cộng sản đảng (9-1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (01-1930). Trong xu thế đó, ở Quảng Nam tháng 9-1929, Đảng bộ Đông Dương Cộng sản đảng Quảng Nam được thành lập do đồng chí Phan Văn Định làm Bí thư.
Sự ra đời của các tổ chức đảng phản ảnh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam, tạo nên một bước phát triển nhảy vọt về chất, kết hợp phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành một làn sóng dân tộc và dân chủ mạnh mẽ trong cả nước. Nhưng sự xuất hiện 3 đảng cộng sản trong một nước đã phát sinh mâu thuẫn với sự phát triển phong trào cách mạng ngày càng cao, đang đòi hỏi có sự lãnh đạo thống nhất. Điều kiện cần thiết lúc này là có một tổ chức cộng sản cấp cao hơn, đủ uy tín đứng ra giải quyết tình trạng phân tán về lãnh đạo cách mạng. Tổ chức ấy là Quốc tế cộng sản. Người lãnh tụ có uy tín và tài năng được Quốc tế cộng sản giao phó hợp nhất ba đảng là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Ngày 3-2-1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Cửu Long (Trung Quốc). Hội nghị đã thống nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức đảng nói trên.
Ở Quảng Nam, sau khi nghe phái viên của Đảng Cộng sản Việt Nam báo tin thắng lợi của Hội nghị Cửu Long, phổ biến Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, Tỉnh bộ lâm thời Đông Dương cộng sản Đảng Quảng Nam nhất trí thực hiện chủ trương hợp nhất của Trung ương Đảng. Ngày 28-3-1930, tại địa điểm Cây Thông Một, xã Cẩm Hà (nay là khối phố Tân Thanh, phường Tân An, thành phố Hội An), Ban Chấp hành lâm thời Tỉnh Đảng bộ Quảng Nam ra Thông cáo về việc thành lập Đảng bộ và công bố từ nay chỉ có một Đảng Cộng sản duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn đường cho công, nông, binh, nhân dân lao động bị áp bức đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong thông cáo thành lập Đảng bộ nêu rõ: “Phong trào cộng sản tỉnh Quảng Nam ta cùng xu hướng chung với cả nước, nó phát triển trên cơ sở tranh đấu của vô sản dân cày và những người bị áp bức trong tỉnh”. Ban Chấp hành Tỉnh ủy lâm thời gồm có các đồng chí: Phan Văn Định, Phạm Thâm, Nguyễn Thái; do đồng chí Phan Văn Định làm Bí thư, Phạm Thâm làm Phó Bí thư.
Ngày 28-3-1930, Đảng bộ Quảng Nam được thành lập. Đây là sự kiện đánh dấu một mốc son sáng ngời trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Quảng Nam dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.Trải qua 89 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ Quảng Nam không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng; đã lãnh đạo quân và nhân dân tỉnh nhà giành được những thắng lợi hết sức vẻ vang. Đảng bộ đã lãnh đạo quân và nhân dân trong tỉnh cùng cả nước lần lượt đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn quê hương vào ngày 24-3-1975, góp phần cùng cả nước làm nên đại thắng mùa xuân 30-4-1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau 44 năm ngày quê hương được hoàn toàn giải phóng (1975-2019), đặc biệt sau hơn 22 năm tái lập tỉnh (1997-2019), Đảng bộ tỉnh Quảng Nam đã lãnh đạo quân và nhân dân tỉnh nhà đạt được nhiều thành tựu hết sức quan trọng trên các lĩnh vực. Từ một tỉnh nằm trong nhóm nghèo nhất nước, đến nay Quảng Nam đã trở thành tỉnh phát triển khá của miền Trung và trong nhóm các tỉnh, thành phố có đóng góp ngân sách cho Trung ương; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể,… Đó là kết quả rất đáng tự hào.
Kỷ niệm 89 năm ngày thành lập Đảng bộ tỉnh Quảng Nam là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử và truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, anh dũng của Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà; đồng thời, động viên Đảng bộ, quân và dân ra sức phát huy thành quả cách mạng, giữ gìn những giá trị thiêng liêng đó, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, mãi mãi thủy chung, son sắt, một lòng đi theo Đảng, theo cách mạng và Bác Hồ, luôn phát huy nội lực, phát huy truyền thống cách mạng, vượt qua mọi khó khăn thử thách, quyết tâm xây dựng Quảng Nam phát triển toàn diện.
- Lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh.
Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh. Được sự hỗ trợ của Trung ương Đảng, Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ, quân và nhân dân tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng đã giành được những thành tựu quan trọng. Điểm nổi bậc trong thời kỳ này là Quảng Nam – Đà Nẵng là tỉnh đi đầu trong việc thực hiện khai hoang, vỡ hóa, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, xây dựng công trình đại thuỷ nông Phú Ninh… Cùng với tập trung lãnh đạo phục hồi, phát triển nông nghiệp, Tỉnh uỷ đã lãnh đạo đẩy mạnh công nghiệp hoá tỉnh nhà, một số ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh như cơ khí, khai khoáng, vật liệu xây dựng, dệt – may, hoá chất, khai thác, chế biến, nuôi trồng thuỷ, hải sản, các ngành xuất nhập khẩu, giao thông vận tải… hình thành và phát triển. Những chủ trương đó đã tạo nên bước nhảy vọt về tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, làm cho một tỉnh từ bao đời thiếu hụt lương thực trở thành một địa phương đủ lương thực.
(Trụ sở UBND tỉnh mới được đầu tư xây dựng khang trang)
3. Lãnh đạo đổi mới, xây dựng và phát triển
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ tỉnh đã vận dụng một cách sáng tạo đường lối của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của tỉnh; vừa tranh thủ sự chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương, vừa phát huy nội lực của địa phương, giành được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng và các mặt công tác khác của Đảng bộ.
Năm 1997, với sự kiện lịch sử chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng đã mở ra thời kỳ phát triển mới đối với Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam.
Khi mới tái lập, Quảng Nam là một tỉnh nông nghiệp thuần tuý, là một trong những tỉnh nghèo. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1997 mới chỉ đạt 607,3 tỉ đồng, bằng 1/2 giá trị sản xuất nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội kém, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, thiếu trường học và bệnh viện. Nhưng với tinh thần quyết tâm đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy chủ động, sáng tạo, tập trung trí tuệ tháo gỡ khó khăn, phát huy lợi thế, huy động nội lực, thu hút đầu tư, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, sự hỗ trợ của các tỉnh, thành phố trong cả nước, của bạn bè quốc tế, nhất là chung sức, đồng lòng của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, đến nay, sau hơn 18 năm tái lập tỉnh, đã tạo nên sự chuyển biến tích cực về kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng tạo tiền đề vững chắc để Quảng Nam phát triển nhanh, bền vững trong thời gian tới.
Trong xây dựng và phát triển kinh tế, Tỉnh ủy đã tập trung lãnh đạo thực hiện 3 nhiệm vụ đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, về tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và xây dựng phát triển nguồn nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trọng tâm nhất là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ. Đến nay, sân bay Chu Lai, Cảng Kỳ Hà được xây dựng đưa vào hoạt động, mở cửa khẩu biên giới với tỉnh Sê Kông Lào, các tuyến đường giao thông được nâng cấp, xây dựng mới đã hình thành nên mạng lưới giao thông thông suốt từ trong nước đến nước ngoài, từ tỉnh đến các huyện, thành phố, lên miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Cùng với thực hiện các nhiệm vụ đột phá, đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quy hoạch, thu hút đầu tư, xây dưng hệ thống các khu, cụm công nghiệp, đặc biệt Bộ Chính trị, Chính phủ đã cho phép nghiên cứu, thành lập Khu kinh tế mở Chu Lai, phát triển vùng phía Đông và phía Tây của tỉnh nhằm tạo sự tác động phát triển hài hòa giữa các vùng của tỉnh; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Cùng với xây dựng, phát triển hệ thống các khu, cụm công nghiệp, đã chú trọng đầu tư thực hiện Chương trình nông thôn mới, xây dựng phát triển hệ thống đô thị của tỉnh. Đến nay, tỉnh Quảng Nam có 2 thành phố là thành phố tỉnh lỵ Tam Kỳ, thành phố sinh thái – văn hóa, du lịch Hội An, huyện Điện Bàn đã được công nhận là thị xã, cùng với việc nâng cấp hệ thống các thị trấn, thị tứ; xây dựng hàng ngàn km đường giao thông nông thôn… đã làm cho bộ mặt từ nông thôn, miền núi đến thành thị có nhiều thay đổi.
4. Kết quả đạt được:
Trong những năm gần đây, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh luôn giữ ở mức tăng cao, năm 2014 tăng 11,5%/năm. So với năm 1997, Tổng sản phẩm bình quân đầu người tăng gần 20 lần, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng ngành nông nghiệp trong Tổng sản phẩm giảm từ 48% năm 1997 xuống còn khoảng 16%; công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng từ 52% năm 1997 lên khoảng trên 84% vào năm 2015. Từ một nền kinh tế hầu như chưa phát triển và là một trong các tỉnh nghèo nhất của cả nước, thu ngân sách trên địa bàn thấp, ở mức 127 tỷ đồng, hoàn toàn lệ thuộc vào trợ cấp kinh phí từ Trung ương; đến nay, tổng thu ngân sách trên địa bàn trên 9.000 tỷ đồng, gấp hơn 50 lần năm 1997, đứng vào hàng các tỉnh phát triển khá trong khu vực và cả nước. Lĩnh vực dịch vụ, nhất là du lịch có bước phát triển đột phá, đặc biệt là sau khi đô thị cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới, Cù Lao Chàm được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới đã thu hút khách trong và ngoài nước đến tham quan, lưu trú ngày càng nhiều, trung bình có trên 2,5 triệu lượt khách năm.
(Đời sống tinh thần và vật chất của bà con dân tộc được chăm lo)
Cùng với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng con người có bước phát triển mạnh mẽ và là yếu tố đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Đến nay, toàn tỉnh có 754 trường phổ thông các cấp, cơ bản đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ học tập của con em; 100% các huyện thành phố hoàn thành phổ cập tiểu học và trung học cơ sở; 24% số trường đạt chuẩn quốc gia; tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào đại học, cao đẳng ở mức khá trong khu vực các tỉnh miền Trung. Từ chỗ chỉ có 03 cơ sở đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, đến nay trên địa bàn tỉnh đã có 02 trường đại học, 06 trường cao đẳng, 03 trường trung cấp chuyên nghiệp và nhiều cơ sở đào tạo nghề, tạo bước chuyển biến mới trong công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ y tế phát triển về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân; quy mô giường bệnh từ 2.500 giường năm 1997 tăng lên gần 3.500 giường, đạt 22,5 giường bệnh/vạn dân; dịch bệnh được khống chế và đẩy lùi, nhiều năm liền dịch không xảy ra.
Mạng lưới phát thanh truyền hình, báo chí phát triển nhanh cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ, phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của địa phương và nhu cầu thông tin của nhân dân.
Các chính sách an sinh xã hội, nhất là công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo các gia đình chính sách, các đối tượng xã hội được các cấp, các ngành, xã hội quan tâm thực hiện; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Công tác giảm nghèo được triển khai quyết liệt và đạt được những kết quả tích cực; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 2,5 – 3%/năm, đến nay, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn dưới 10%.
(Miền núi được đầu tư xây dựng với diện mạo mới)
Quốc phòng – an ninh luôn được đảm bảo; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, phát huy, tạo sự đồng thuận xã hội, ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng trong việc đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng và phát triển quê hương. Với những thành tựu to lớn trong 40 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ, quân và dân tỉnh Quảng Nam vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 2014 vừa qua, Quảng Nam được bình chọn là đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua các tỉnh duyên hải miền Trung.
Kết quả đạt được trong 40 năm qua là sự nổ lực liên tục của toàn Đảng bộ, cả hệ thống chính trị và cộng đồng các dân tộc ở tỉnh Quảng Nam. Là kết quả của sự đoàn kết, thống nhất, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ. Là sự thể hiện cụ thể bản lĩnh của Đảng bộ về lựa chọn hướng đi đúng; xác định những vấn đề đột phá và vận dụng linh hoạt cơ chế; dám nghĩ, dám làm để xây dựng và phát triển tỉnh nhà.
xem thêm
Quán nhậu bình dân Tam kỳ quàng nam